Võng Thị, Hà Nội, ngày 11 tháng 8 năm 2012
Trong lịch sử ngoại giao Việt Nam kể từ sau khi đất nước đã hoàn thành sự nghiệp độc lập thống nhất ngày 30-04-1975 cho đến hôm nay, sự kiện hội nghị bí mật Thành Đô tháng 9-1990 giữa hai đoàn đại biểu cấp cao hai nước Việt – Trung để bình thường hóa quan hệ là một thất bại nhục nhã của nước ta, bẻ ghi con đường phát triển của nước ta dẫn đến tình hình đất nước như hôm nay: Một lần nữa Trung Quốc lại trở thành mối uy hiếp trực tiếp và nguy hiểm nhất đối với độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và con đường phát triển của nước ta.
Tóm tắt lịch sử đã xảy ra: Không thể nào chấp nhận được thắng lợi của Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, ngay sau 30-04-1975 Trung Quốc đã tạo ra cái “bẫy Campuchia”, khuyến khích Khmer đỏ khiêu khích vũ trang đánh Việt Nam và đến tháng 4-1977 Khmer đỏ đã tiến hành chiến tranh lớn tấn công diện rộng toàn vùng biên giới Tây Nam nước ta giáp Campuchia; đồng thời ngày 17-02-1979 Trung Quốc huy động 60 vạn quân phát động cuộc chiến tranh quy mô lớn ồ ạt tiến công toàn tuyến biên giới phía Bắc của Việt Nam, với cái đích kiêu ngạo “Dạy cho Việt Nam một bài học”. Với chiến lược căng Việt Nam ra cả hai đầu mà đánh, hai cuộc chiến tranh dã man này nhằm mục đích khuất phục nước ta, trên thực tế đến 1989 mới thực sự im tiếng súng ở biên giới phía Bắc và ở Campuchia. Song cả hai cuộc chiến tranh này đã thất bại, vì Trung Quốc không thực hiện được mục tiêu chiến lược của nó là khuất phục Việt Nam, hơn thế nữa Việt Nam đã đánh tan Khmer đỏ và cứu được nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng. Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc luôn là đòi hỏi chiến lược của Việt Nam, song tình hình nêu trên cho thấy dù bị sức ép quyết liệt từ phía Trung Quốc và bị bao vây cấm vận vì vấn đề Campuchia, Việt Nam không ở trong thế yếu. Song vào thời điểm cuối những năm 1980 và đầu năm 1990 các nước Liên Xô Đông Âu sụp đổ. Diễn biến này được lãnh đạo nước ta lúc ấy coi là hệ quả phản công của chủ nghĩa đế quốc, và lo rằng nạn nhân kế tiếp có thể là Việt Nam. Với tư duy như vậy, sau nhiều nỗ lực khác không thành vì bị Trung Quốc luôn gây sức ép, lãnh đạo nước ta đã chấp nhận hai đòi hỏi quan trọng nhất của Trung Quốc là rút quân khỏi Campuchia và loại bỏ Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch để mở đầu cho quá trình bình thường hóa quan hệ. Ngày 3 và 4 tháng 9-1990 cuộc họp cấp cao Thành đô được tiến hành, Việt Nam tham gia với mong muốn bình thường hóa quan hệ và liên minh với Trung Quốc để cùng nhau bảo vệ chủ nghĩa xã hội, bất chấp việc Trung Quốc tháng 3-1988 đánh chiếm thêm 7 đảo và bãi đá của ta ở Trường Sa, bất chấp công cuộc đổi mới của nước ta bắt đầu từ năm 1986 mang lại thành quả bất ngờ và nhanh chóng cải thiện tình hình kinh tế nước ta trong những năm ấy.
Sai lầm nghiêm trọng thứ nhất là tư duy ý thức hệ đã mù quáng không nhìn ra sự sụp đổ của các nước LXĐÂ cũ tạo ra một cục diện quốc tế mới cho phép nước ta thực hiện triệt để độc lập tự chủ, từ đây có thể đi cùng với cả trào lưu tiến bộ thế giới để bảo vệ và phát triển đất nước mình, không cần phải gắn nước ta vào phe nào hay nước lớn nào. Cơ hội này đã bị vứt bỏ, chẳng những thế mà còn bị xem là nguy cơ lớn nhất đối với đất nước – thực ra là nguy cơ lớn nhất đối với chế độ chính trị.
Sai lầm nghiêm trọng thứ hai là lẫn lộn hai thứ làm một giữa bình thường hóa quan hệ quốc gia – quốc gia và liên minh ý thức hệ. Từ đó có ảo tưởng liên minh ý thức hệ có thể giải quyết và vượt qua được những mâu thuẫn hay xung đột lợi ích quốc gia, là cách tốt nhất để bảo vệ quốc gia và chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tư duy như vậy, trên thực tế phía ta đã chấp nhận bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc trên thế yếu và gần như với bất cứ giá nào.
Bình thường hóa quan hệ Việt Trung kể từ Thành Đô 9-1990, Việt Nam được hưởng một thời kỳ hòa hoãn nhất định với Trung Quốc, song đó là thời kỳ hòa hoãn trên thế yếu và có nhiều sai lầm nghiêm trọng về ý thức hệ. Thực tế diễn ra trong suốt thời gian này cho đến nay là phía Việt Nam đã làm tất cả có thể để hòa hiếu, nhân nhượng, giữ gìn đại cục, với cái đích trung tâm là gìn giữ mối quan hệ chiến lược số một với Trung Quốc. Nhưng toàn bộ thời gian này phía Trung Quốc lại triệt để khai thác mối quan hệ hữu nghị như thế cho việc phát huy tối đa sự can thiệp của quyền lực mềm vào toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của Việt Nam, gây ra không ít khó khăn cho Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại. Đặc biệt là Trung Quốc đã xuất khẩu ngoạn mục “nguy cơ diễn biến hòa bình” vào Việt Nam, để chính Trung Quốc có điều kiện tốt nhất tác động, ảnh hưởng và diễn biến Việt Nam về mọi mặt.
Nhìn lại hơn 20 năm qua, điểm lại toàn bộ những việc trong quan hệ hai nước đã làm được, từ đàm phán biên giới trên bộ và dưới biển, phát triển quan hệ kinh tế, việc Trung Quốc trúng thầu hàng trăm công trình kinh tế quốc gia quan trọng của Việt Nam, thuê đất, thuê rừng, bô-ít Tây Nguyên, ti-tan ven biển miền Trung, những hoạt động tăng cường quan hệ thực ra là nhằm tăng cường chi phối nhân sự nước ta, những hoạt động tăng cường giao lưu.., tất cả đều chịu sự chi phối sâu sắc của quyền lực mềm Trung Quốc.
Những sai lầm, yếu kém chủ quan của ta, do chính ta tự gây nên, cần phải được nhìn nhận khách quan và phê phán nghiêm khắc, không thể đổ thừa cho bất kỳ ai bên ngoài.
Dù khẳng định dứt khoát như thế, vẫn phải đánh giá nghiêm khắc: Tổng hợp tình hình hơn 20 năm qua, thực tế đang diễn ra là quan hệ Việt – Trung càng phát triển, thì Việt Nam càng lệ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc về kinh tế và chính trị, bị uy hiếp nhiều hơn về đối ngoại và quốc phòng. Thực tế này, cùng với ảnh hưởng chính trị nói chung của Trung Quốc vào đối nội của Việt Nam một mặt đang kìm hãm nghiêm trọng toàn bộ sự phát triển của Việt Nam nói chung, mặt khác gây ly tán đến mức nguy hiểm giữa nhân dân và lãnh đạo đất nước, khiến cho trấn áp và mất dân chủ trong đối nội phải gia tăng, đồng thời thực tế này cũng khuyến khích tham nhũng tiêu cực phát triển. Những vụ trấn áp biểu tình vừa qua chống yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông nói lên nhiều điều và càng đổ dầu thêm vào lửa bức xúc trong nhân dân.
Hiện nay, đất nước có rất nhiều yếu kém bên trong, lệ thuộc và hèn yếu về đối ngoại, nguyên nhân của thực trạng này – ngoài cac lẫm lỗi chủ quan của ta – có nguyên nhân chi phối rất nghiêm trọng của ảnh hưởng Trung Quốc.
Ngày nay, lợi ích quốc gia đòi hỏi phải lọai bỏ xu thế đang diễn ra là quan hệ Việt – Trung càng phát triển thì Việt Nam càng lệ thuộc vào Trung Quốc và tương lai phát triển của Việt Nam càng bị chặn đứng. Ngày nay quốc gia đang đứng trước nguy cơ Trung Quốc tìm cách tiếp tục lấn chiếm biển đảo của đất nước trên Biển Đông. Sau 37 năm độc lập thống nhất, đất nước đang lâm nguy.
Những yếu kém của ta trước đây đã dẫn đến Thành Đô 1990. Không loại trừ nguy cơ những yếu kém hiện nay của nước ta có thể tái lập một Thành Đô 1990 đời mới, với hệ quả là vứt bỏ cả thế giới đang đứng về phía chính nghĩa của nước ta, để quay lại hòa hiếu với Trung Quốc và để đẩy tiếp cả đất nước xuống bùn đen!
Cả nước phải đồng lòng nhất trí loại bỏ nguy cơ mới này. Muốn có được quan hệ hữu nghị thực sự, hợp tác bình đẳng cùng có lợi giữa Việt Nam – Trung Quốc, càng nhất thiết phải loại bỏ nguy cơ Thành Đô 1990 đời mới!
Để mỗi chúng ta có những căn cứ các đáng về mối lo nguy cơ mới, trong phần phụ lục kèm theo bài này, xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc một số trích dẫn trong tài liệu nghiên cứu của anh Dương Danh Dy về Hội nghị Thành Đô 9-1990.
——————————————————————————–
Phụ lục
Một số ý trích dẫn từ tài liệu nghiên cứu
Hội nghị Thành Đô, tháng 9 năm 1990
Dương Danh Dy, Hà Nội, tháng 10 -2011
|
“…Ngoài những nhân nhượng “vô nguyên tắc” về CPC như đã trình bày trên, phía Việt Nam đã không hề(hay không dám) đề cập tới nguyên nhân tạo ra bất đồng trong quan hệ Việt Trung trong hơn 10 năm qua nhất là cuộc chiến tranh biên giới tháng 2 năm 1979 do Ban lãnh đạo Bắc Kinh cố tình, chủ động gây ra.. Phía Việt Nam đã hoàn toàn cho qua vấn đề sau khi nghe Giang Trạch Dân nói trong diễn văn: quan hệ hai nước từ nay “hãy gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”…
…
…
Chúng ta không đòi Trung Quốc phải bồi thưòng chiến tranh(trong khi đã nêu vấn đế Mỹ bồi thường chiến tranh là điều kiện tiên quyết để bình thưòng hoá quan hệ hai nuớc) nhưng tại sao trong đàm phán bí mật lại không dám nói dù chỉ là một lời với Trung Quốc về cuộc chiến tranh tàn ác đó và buộc họ chí ít phải nói ra câu “lấy làm tiếc” về hành động phi nghĩa của mình? Nhượng bộ “vô nguyên tắc” này của Việt Nam đã làm cho Trung Quốc dưòng như giành được “vị thế chính nghĩa” trước dư luận quốc tế và nhất là trong đông đảo nhân dân Trung Quốc dù họ mang hơn 60 vạn quân chính qui xâm lược, giết hại nhiều đồng bào ta, tàn phá nhiều cơ sở vật chất của ta tại vùng 6 tỉnh biên giới Việt Nam. Làm cho một bộ phận ngưòi trên thế giới cho rằng những vu cáo bịa đặt của Trung Quốc: “Việt Nam xua đuổi nguời Hoa”, “ViệtNam xâm lược Cămpuchia”… là đúng, việc thế giới “ lên án, bao vây cấm vận Việt Nam” là cần thiết, việc Trung Quốc “cho Việt Nam một bài học” là phải đạo v.v.… trong khi chính chúng ta mới là ngườì có công lớn trong việc đánh tan bọn Khơme đỏ, cứu nhân dân Cămpuchia khỏi nạn diệt chủng. Tóm lại là đã làm cho khá nhiều người trong thời gian khá dài hiểu lầm, ác cảm với Việt Nam.
…
…
…Cho tới khi đặt bút viết những dòng này mặc dù đã mất nhiều công sức tìm hiểu, người viết vẫn chưa biết ai là người đề xuất chủ trương cấm không được nói lại chuyện cũ với Trung Quốc, khiến cho trong hơn 20 năm qua, trên các phương tiện truyền thông của Việt Nam không hề có một tin tức nào động chạm tới Trung Quốc( ngay cả tên tuổi, nghĩa trang của các liệt sĩ hy sinh trong cuộc đấu tranh yêu nước thần thánh trên cũng bị cố tình lảng tránh không dám công khai nói tới, thậm chí bị lãng quên).
…
…
…Cần phải nói ra đây một sự thực là trong khi đó, báo, mạng chính thống của Trung Quốc vẫn ra sức tung hoành, không hề bị một sự cấm đoán, hạn chế nào, ngày ngày tìm hết cách để “bôi xấu, xuyên tạc” Việt Nam về mọi mặt, đến nỗi phần lớn ngưòi dân Trung Quốc bình thường khi được hỏi về Việt nam cũng thốt lên, Việt Nam là “kẻ vô ơn bội nghĩa, là kẻ ăn cháo đá bát..”. Theo tài liệu chính thức của Trung Quốc trong một cuộc điều tra công khai, đã có tới “80% dân mạng Trung Quốc(tức khoảng 300 triệu ngưòi-chủ yếu là thanh niên và người có học) tán thành dùng biện pháp vũ lực với Việt Nam tại Biển Đông” Cảm tình, ấn tưọng tốt đẹp của đa số nhân dân Trung Quốc về một nước Việt Nam anh dũng trong chiến đấu, cần cù trong lao động, hữu nghị với Trung Quốc trước đây dường như không còn nữa. Hậu quả tai hại này chưa biết bao giờ mới xoá bỏ được…
…
…
…Chấp nhận yêu sách trắng trợn của phía Trung Quốc “gạt bỏ mọi chức vụ trong và ngoài đảng đồng chí Nguyễn Cơ Thạch, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch HĐBT kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam”, rồi lợi dụng mọi cơ hội đế đến đại hội VII ĐCSVN chính thức làm được việc đó khi đồng chí là một trong số rất ít người lãnh đạo có tư duy sáng tạo, am hiểu tình hình quốc tế, có sức khoẻ dồi dào, có uy tín quốc tế, nhất là đối với các nước phương tây là một việc làm thể hiện sự yếu kém về bản lĩnh và sự tha hoá về tình nghĩa cộng sản, là một việc làm dại dột “vác đá tự ghè chân mình”…
…
…
…Có thể có ngưòi không đồng ý nhận định này, nhưng người viết bài này luôn cho rằng rằng Nguyễn Cơ Thạch là số ngưòi hiếm có trong hàng ngũ lãnh đạo đảng ta lúc đó, ông am hiểu sâu sắc tình hình quốc tế, có quan hệ tương đối tốt với một số chính khách phương tây và đặc biệt là người sớm thấy rõ âm mưu ý đồ đen tối của Trung Quốc đối với Việt Nam, đang tích cực vạch trần và ra sức chống lại mọi ý đồ bành trướng bá quyền của họ khiến ban lãnh đạo Bắc Kinh thấy rằng nếu không cương quyết ép ban lãnh đạo Việt Nam loại bỏ Nguyễn Cơ Thạch thì Việt Nam sẽ “sớm thoát khỏi vòng tay của Trung Quốc”, sẽ nhanh chóng có “ vai trò quan trọng trong khu vực và thế giới”, điều mà bất kỳ ban lãnh đạo Trung Quốc thế hệ nào cũng đều không bao giờ muốn. Có thể nói mà không sợ quá mức rằng, nếu Nguyễn Cơ Thạch còn trong ban lãnh đạo cấp cao Đảng ta một nhiệm kỳ nữa thì việc bình thường hoá quan hệ Việt Mỹ và việc Việt Nam gia nhập Asean chắc chắn không phải mãi đến năm 1995 mới thực hiện, chậm hơn việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc tới gần 5 năm….
…
…
…Ban lãnh đạo Bắc Kinh các thế hệ, lo sợ ảnh hưỏng của Nguyễn Cơ Thạch tới mức, mặc dù ông buộc phải nghỉ hưu và mất đã khá lâu mà hơn hai mươi năm sau ngày bình thưòng hoá quan hệ Việt Trung, tại Đại hội lần thứ XI ĐCSVN tháng 1 năm 2011 họ còn không muốn để con trai ông làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam ( lời nguời lãnh đạo đảng ta lúc đó nói, tôi được nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Trọng Vĩnh trực tiếp cho biết)
Chỉ một ví dụ cụ thể này là đủ nói rõ vấn đề
…
…
…Không thể dùng các từ ngữ thông thưòng để đánh giá các hậu quả trên mà phải dùng từ “ cái giá phải trả bằng xương máu” mới phản ánh đúng bản chất của vấn đề. “Hội nghị Thành Đô” đã, đang và sẽ còn mang lại cho đất nước chúng những hậu quả “to lớn”, “cay đắng” , “nhục nhã”…! Nếu những người có trách nhiệm, không dám công khai toàn bộ tư liệu về hội nghị này và nghiêm chỉnh đánh giá lại “kết quả”
…Vì vậy một vấn đề cũng quan trọng không kém mà ngưòi viết xin mạnh dạn khởi đầu trước: từ những cái giá phải trả đó chúng ta cần rút ra những bài học gì? Cần ghi nhớ những bài học nào?
(1)Những ngưòi lãnh đạo chủ chốt của Đảng ta lúc đó hầu như không nắm được những thay đổi, những diễn biến lớn trên trường quốc tế, nhất là về các nước xhcn Đông Âu, tình hình Liên Xô, tình hình Mỹ cũng như tình hình đối thủ trực tiếp của mình lúc đó là Trung Quốc. Từ đó đã có những nhận định rất sai lầm để rồi đưa ra những quyết định rất sai lầm.
Thắng lợi của Công đoàn Đoàn kết tại Ba Lan, sự kiện “bức tường Berlin” bị nhân dân Đức xoá bỏ, việc Yelsin giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tại Cộng hoà liên bang Nga, Goovachov từ bỏ chủ nghĩa xã hội và đảng cộng sản… đã không làm cho một số ngưòi trong ban lãnh đạo chúng ta thấy rằng chủ nghĩa xã hội đã không còn được nhân dân ở chính ngay những nước đó ưa thích, theo đuổi, sự sụp đổ của họ là lẽ tất nhiên, Trong tình hình như thế mà lại chủ trương “bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc để bảo vệ chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc”, ”Mỹ và phương tây muốn cơ hội này để xoá cộng sản. Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng là nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc” (Hồi ký Trần Quang Cơ).
Không thấy hết những khó khăn trong ngoài nước của Trung Quốc lúc đó. Trong nước họ vừa xẩy ra “sự kiện Thiên An Môn”, Triệu T ử Dương bị cách chức Tổng Bí thư, nội bộ lãnh đạo cấp cao bất đồng sâu sắc, một bộ phận nhân dân bất mãn với ĐCSTQ … Do đàn áp đẫm máu học sinh sinh viên, Trung Quốc bị các nước phương tây chủ yếu cấm vận về chính trị, kinh tế, quân sự(có hạng mục như xuất khẩu kỹ thuật cao trong quân sự đến nay vẫn chưa huỷ bỏ)Họ ở vào thế không có lợi nhiều mặt khi bình thường hoá quan hệ với ta, nhưng do mấy nhà lãnh đạo chúng ta lúc đó đánh giá không đúng tình hình nên không những không sử dụng được lợi thế của mình, mà còn bị Trung Quốc “dắt mũi” kéo theo, thiệt đơn thiệt kép trong xử lý quan hệ cũ và trong giai đoạn bình thường quan hệ mới, cho tới tận bây giờ và cả trong tương lai nữa.
(2) Bằng những thoả thuận tại Hội nghị Thành Đô, mấy nhà lãnh đạo chủ yếu của Đảng ta lúc đó đã tự đánh mất bản lĩnh”kiên cường, bất khuất, không sợ địch”mà nhiều thế hệ lãnh đạo đã nêu cao, để sẵn sàng nhận sai về phần mình trước “kẻ thù”, tuỳ tiện đổ lỗi cho ngưòi tiền nhiệm. Người viết bài này không hiểu vì sao, người đại diện cho Đảng ta, một nhân vật có tinh thần sáng tạo lớn với ý chí kiên cường đã tích cực phát triển đường lối “cải cách và đổi mới” và chỉ đạo toàn Đảng toàn dân thu được những thành tích to lớn rất quan trọng bước đầu, thế nhưng trước đối thủ Trung Quốc hình như chỉ còn là chiếc bóng, mất hết cảnh giác cách mạng gật đầu tin tưởng và làm theo mọi đề xuất mang đầy chất lừa bịp “vì chủ nghĩa xã hội” “vì đại cục”… của Trung Quốc, thậm chí chấp nhận để họ can thiệp vào công việc nhân sự cấp cao của đảng ta.
Bài học này, cần được phân tích sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân, một mặt để thấy rõ sai lầm quá khứ, một mặt để ngăn chặn, phá tan những âm mưu, mánh khoé mới của ngưòi “láng giềng 4 tốt” của “những đồng chí” luôn rêu rao “16 chữ vàng” đang không ngừng vận dụng những “thành quả cũ” vào trong quan hệ với Việt Nam chúng ta hiện nay và trong tưong lai….
…
…”
Hết
—* Ông Nguyễn Trung nguyên là Đại sứ VN tại Thái Lan, thành viên Ban Nghiên cứu của Chính phủ (Phan Văn Khải), Viện Nghiên cứu phát triển IDS, ông cũng ký tên trong Thư ngỏ của các nhân sĩ, trí thức gửi Quốc hội, Lãnh đạo Nhà nước và ĐCS VN mới đây (số thứ tự 62).
Mời tham khảo thêm: + 73. GIẢI MẬT: TRẢI NGHIỆM CHUYỆN BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ TRUNG-VIỆT VÀO THẬP NIÊN 1990; + 76. TRƯỚC VÀ SAU CUỘC GẶP CẤP CAO TRUNG-VIỆT Ở THÀNH ĐÔ (Việt Sử Ký).